Hồ Thị Nhung, Nguyễn Linh Trang,

Hồ Thị Phương Thảo, Hà Văn Ngát, Phạm Thị Chung, Lô Thị Hoài

Viện Nông nghiệp và Tài nguyên, Trường Đại học Vinh

TÓM TẮT

Hiện nay việc nuôi trồng nấm sò đang được phát triển tại Nghệ An. Bệnh hại trên nấm sò là một trong các nguyên nhân chính làm giảm năng suất. Có 3 loài bệnh hại phổ biến trên nấm sò trắng tại các trang trại trồng nấm của Nghệ An là bệnh mốc đen (Aspergiluss sp.), bệnh mốc xanh (Trichoderma sp.), bệnh mốc cam (Neurospora sp.). Trong đó, loài nấm mốc xanh gây hại phổ biến nhất. Nấm mốc xanh (Trichoderma sp.) gây hại nặng nhất vào giai đoạn mới cấy giống nấm sò trắng làm tơ nấm phát triển kém dần; giai đoạn tơ nấm sò trắng đã phủ kín nửa bịch phôi và kín hoàn toàn bịch phôi làm giảm nhiều đến năng suất; giai đoạn bịch phôi nấm sò đã ra quả thể, nấm mốc xanh ít ảnh hưởng hơn.Phòng trừ nấm mốc xanh (Trichoderma sp.) bằng nước vôi có hiệu quả trên bịch phôi nấm sò trắng giai đoạn tơ nấm đã phủ kín nửa bịch phôi (dùng nước vôi 15%) và giai đoạn tơ nấm phủ kín bịch phôi (dùng nước vôi 10%).

 Key words: Nước vôi, Pleurotus ostreatus, Trichoderma sp.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trên thế giới đã xác định được ít nhất 14.000 loài nấm lớn (Trịnh Tam Kiệt, 2013), trong số đó có khoảng 2000 loài nấm có thể ăn và dùng làm thuốc. Nấm ăn và nấm dược liệu là một trong 09 sản phẩm quốc gia được ưu tiên phát triển giai đoạn 2012 – 2020 (Quyết định số 439/QĐ-TTg ngày 16/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ). Nấm sò (Pleurotus spp.) có khả năng thích ứng rộng với nhiều điều kiện sinh thái, dinh dưỡng khác nhau nên được trồng phổ biến và có giá trị kinh tế trên toàn thế giới (Hassan et al., 2010). Ở Việt Nam nấm sò là một trong năm loại nấm được phát triển hàng hóa với sản lượng lớn (Báo cáo của Cục trồng trọt tại Hội nghị phát triển nấm các tỉnh phía Bắc, Đồ Sơn - Hải Phòng 22/9/2011). Nấm sò (Pleurotus spp.) có nhiều giá trị dinh dưỡng (Mkhatshwa, 2002) và dược học (Gunde et al., 1995, Wang et al., 2000, Wasser, 2002) tốt cho con người.

Hiện nay việc nuôi trồng nấm nói chung và nấm sò nói riêng đang được đẩy mạnh ở các địa phương trong cả nước trong đó có Nghệ An. Phong trào trồng nấm sò đang được nhân rộng tại các xã Yên Thành, Nghi Lộc, Tân Kỳ, Diễn Châu, trang trại tại thành phố Vinh và lân cận. Quy mô trang trại nấm sò tại Nghệ An từ 1 nghìn đến trên 2 vạn bịch nấm trong một vụ trồng với giống nấm sò trắng (Pleurotus ostreatus) đang được trồng phổ biến.

Việc trồng nấm sò thường bị các loài bệnh hại tấn công làm giảm năng suất, đặc biệt là bệnh mốc xanh gây hại rất phổ biến trong các trang trại nấm. Để góp phần hạn chế các bệnh hại trên nấm sò, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu phòng trừ bệnh mốc xanh do nấm Trichoderma sp. hại nấm sò trắng (Pleurotus ostreatus) bằng nước vôi”.


Phương pháp nghiên cứu sự gây hại của nấm mốc xanh với nấm sò trắng

          Bố trí 4 thí nghiệm ứng với 4 giai đoạn sinh trưởng của nấm sò trắng: giai đoạn mới cấy nấm sò, giai đoạn tơ nấm sò phủ kín nửa bịch phôi, giai đoạn tơ nấm sò đã phủ kín bịch phôi và giai đoạn nấm sò ra quả thể. Mỗi thí nghiệm được bố trí gồm 2 công thức, mỗi công thức 30 bịch phôi nấm sò sạch bệnh ứng với mỗi giai đoạn trên, lặp lại 3 lần.

CT1: Bịch phôi mới cấy nấm sò/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín nửa bịch/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín bịch/bịch phôi nấm sò đang ra quả thể sạch bệnh

CT2: Bịch phôi mới cấy nấm sò/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín nửa bịch/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín bịch/bịch phôi nấm sò đang ra quả thể + nhiễm nấm mốc xanh

Chỉ tiêu theo dõi: Tốc độ lan tơ nấm sò trắng trong bịch phôi; ngày xuất hiện mốc xanh trong bịch phôi; ngày nấm mốc xanh “ăn” hết tơ nấm sò trắng, ngày xuất hiện quả thể; năng suất trung bình của mỗi bịch phôi sau các trà thu nấm trong thời gian  2 tháng.

Phương pháp nghiên cứu biện pháp phòng trừ nấm mốc xanh hại nấm sò trắng bằng nước vôi

          - Bố trí 3 thí nghiệm ứng với 3 giai đoạn sinh trưởng của nấm sò trắng: giai đoạn mới cấy nấm sò, giai đoạn tơ nấm sò phủ kín nửa bịch phôi, giai đoạn tơ nấm sò đã phủ kín bịch phôi. Mỗi thí nghiệm được bố trí gồm 5 công thức xử lý nước vôi, mỗi công thức 30 bịch phôi nấm sò sạch bệnh ứng với mỗi giai đoạn trên, lặp lại 3 lần.

          CT1: Bịch phôi mới cấy nấm sò/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín nửa bịch/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín bịch sạch bệnh

          CT2 (Đối chứng): Bịch phôi mới cấy nấm sò/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín nửa bịch/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín bịch + nhiễm nấm mốc xanh

          CT3: Bịch phôi mới cấy nấm sò/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín nửa bịch/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín bịch + nhiễm nấm mốc xanh + nước vôi 5%

          CT4: Bịch phôi mới cấy nấm sò/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín nửa bịch/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín bịch + nhiễm nấm mốc xanh + nước vôi 10%

          CT5: Bịch phôi mới cấy nấm sò/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín nửa bịch/bịch phôi có tơ nấm sò đã phủ kín bịch + nhiễm nấm mốc xanh + nước vôi 15%

          Chỉ tiêu theo dõi: Tốc độ lan tơ nấm sò trắng trong bịch phôi; ngày xuất hiện mốc xanh trong bịch phôi; ngày nấm mốc xanh “ăn” hết tơ nấm sò trắng, ngày xuất hiện quả thể nấm sò trắng; năng suất trung bình của mỗi bịch phôi sau các trà thu nấm trong thời gian  2 tháng và hiệu quả sử dụng nước vôi.

 2.3. Công thức sử dụng và xử lý số liệu

Đánh giá hiệu quả của biện pháp sử dụng nước vôi phòng trừ nấm mốc xanh hại nấm sò áp dụng công thức Abbott: 

HQ (%) = (C- T).100/C

         Trong đó: HQ (%): Hiệu quả của nước vôi, C: Số bịch phôi nhiễm nấm mốc xanh công thức đối chứng; T: Số bịch phôi nhiễm nấm mốc xanh công thức xử lý vôi.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Thành phần bệnh hại phổ biến trên nấm sò trắng (Pleurotus ostreatus)



 Bảng 1. Thành phần bệnh hại hại nấm sò trắng (Pleurotus ostreatus) tại Nghệ An


TT

Tên bệnh hại

Tên loài được định danh

Mức độ phổ biến

1

Mốc xanh

Trichoderma sp.

+++

2

Mốc đen

Aspergillus sp.

++

3

Mốc cam

Neurospora sp.

++

Ghi chú: + ít phổ biến(0-25%); ++ phổ biến(25-50%); +++ rất phổ biến(hơn 50%)


Hình 1. Thành phần bệnh hại trên nấm sò trắng (Pleurotus ostreatus)

a. Nấm bệnh mốc xanh; b. Cấu trúc sinh bào tử của nấm Trichoderma sp. gây bệnh mốc xanh; c. Trại nấm Nghi Liên, Nghi Lộc bị nhiễm mốc xanh nặng; d. Nấm bệnh mốc cam;
e. Cấu trúc sinh bào tử của nấm Aspergillus sp. gây bệnh mốc cam; f. Nấm bệnh m
ốc đen

 3.2. Nghiên cứu đặc điểm gây hại của nấm mốc xanh (Trichoderma sp.) đối với nấm  sò trắng

       Đặc điểm gây hại của nấm mốc xanh đối với nấm sò trắng khác nhau trong mỗi giai đoạn sinh trưởng của nấm sò (bảng 2). Trong đó, giai đoạn mới cấy nấm sò bị ảnh hưởng nặng nhất bởi nấm bệnh mốc xanh: làm tơ nấm sò phát triển kém dần, nấm mốc xanh xuất hiện trên bịch phôi sau 16 – 18 ngày theo dõi và “ăn” ngắn dần tơ nấm tiếp sau đó 4 ngày. Giai đoạn tơ nấm sò trắng đã phủ kín nửa và kín hoàn toàn bịch phôi: tuy nấm mốc xanh không thể lấn át được hoàn toàn nấm sò và không xuất hiện tản nấm mốc xanh trên bịch phôi nhưng nấm mốc xanh đã làm giảm nhiều đến năng suất chỉ đạt lần lượt là 320g nấm sò/bịch phôi và 410g nấm sò/bịch phôi so với đối chứng là 610-620g nấm sò/bịch phôi. Ở giai đoạn bịch phôi nấm sò đã ra quả thể, nấm mốc xanh ảnh hưởng nhẹ hơn đến sự phát triển và năng suất của bịch phôi nấm sò, năng suất đạt 530g/bịch phôi so với đối chứng là 610g/bịch phôi.

Bảng 2. Sự gây hại của nấm mốc xanh đối với nấm sò trắng ở các giai đoạn
sinh trưởng khác nhau trên bịch phôi sau 3 tháng theo dõi

Nhiễm nấm mốc xanh vào các giai đoạn

Tiêu chí đánh giá

Công thức

Đối chứng

Lây nhiễm nấm mốc xanh

Mới cấy
nấm sò

Ngày tơ nấm sò trắng phát triển kín bịch phôi

25 ngày

-

Ngày xuất hiện nấm mốc xanh trên bịch phôi

-

16 - 18 ngày

Ngày mốc xanh “ăn” hết tơ nấm sò

-

20 - 22 ngày

Tơ nấm sò
đã phủ kín
nửa bịch phôi

Ngày tơ nấm sò trắng phát triển kín bịch phôi

14 ngày

15 ngày

Ngày xuất hiện nấm mốc xanh trên bịch phôi

-

-

Ngày xuất hiện quả thể

21 ngày

22 ngày

Năng suất trung bình/bịch phôi

610 g

320 g

Tơ nấm sò
đã phủ kín
bịch phôi

Ngày xuất hiện nấm mốc xanh trên bịch phôi

-

-

Ngày xuất hiện quả thể

7 ngày

7 ngày

Năng suất trung bình/bịch phôi

620 g

410 g

Bịch phôi nấm sò đang ra quả thể

Ngày xuất hiện nấm mốc xanh trên bịch phôi

-

-

Năng suất trung bình/bịch phôi

610 g

530 g

3.3. Nghiên cứu biện pháp phòng trừ nấm mốc xanh hại nấm sò trắng bằng nước vôi

          Theo kết quả của bảng 2 cho thấy giai đoạn bịch phôi ươm tơ: mới cấy nấm sò, nấm sò đã phát triển phủ kín nửa bịch và kín bịch phôi là những giai đoạn bị ảnh hưởng nặng bởi nấm mốc xanh. Vì vậy, dùng nước vôi với các nồng độ khác nhau để phòng trừ nấm mốc xanh gây hại trong những giai đoạn sinh trưởng này. Kết quả thu được theo bảng 3, bảng 4 và bảng 5 dưới đây.

            Theo bảng 3 xử lí nước vôi ở các mức nồng độ 5%, 10%, 15% trên bịch phôi nấm sò ở giai đoạn mới cấy (CT3, CT4, CT5) cho kết quả phòng trừ nấm mốc xanh không cao, hiệu quả chỉ đạt từ 8,89% đến 37,78%, nấm mốc xanh vẫn xuất hiện và lấn át tơ của nấm sò trắng ở tất cả các công thức. Mặc dù khi xử lí ở mức nồng độ nước vôi 15% (CT5) thì thời gian nấm mốc xanh xuất hiện và “ăn” hết tơ nấm sò chậm hơn so với các công thức khác. Đối với giai đoạn mới cấy thì xử lí nước vôi 5%, 10%, 15% để trừ nấm mốc xanh là không hiệu quả.

Bảng 3. Khả năng phòng trừ nấm mốc xanh của nước vôi
giai đoạn mới cấy nấm sò vào bịch phôi sau 30 ngày theo dõi

CT

Ngày xuất hiện mốc xanh (ngày)

Ngày mốc xanh ”ăn” hết tơ (ngày)

Tỷ lệ bịch phôi nhiễm mốc xanh (%)

Hiệu quả  phòng trừ (%)

CT1

-

-

-

-

CT2

16,2

20,2

100

-

CT3

16,1

20,1

91,1

8,89c

CT4

19,3

24,3

74,4

25,56b

CT5

21,1

27,1

62,2

37,78a

CV%

 

 

 

12,7

LSD0,05%

 

 

 

4,6


      Trên bịch phôi nấm sò ở giai đoạn tơ phủ kín nửa bịch, xử lí nước vôi 5%, 10% và 15% (CT3, CT4, CT5) để giảm sử gây hại của nấm mốc xanh và giúp năng suất tăng hơn so với bịch phôi nấm bị nhiễm mốc xanh mà không được xử lý (CT2) từ 30,54% đến 71,06%. Xử lí nước vôi 15% đạt hiệu quả tăng năng suất nấm sò cao hơn so với các mức nồng độ còn lại, tuy nhiên chưa hoàn toàn kiểm soát được nấm bệnh mốc xanh nên năng suất vẫn thấp hơn so với công thức bịch nấm sò hoàn toàn sạch bệnh (CT1) là 6,67% (bảng 4).

Bảng 4. Khả năng phòng trừ nấm mốc xanh của nước vôi
giai đoạn tơ nấm sò đã phủ kín nửa bịch phôi sau 70 ngày theo dõi

CT

Ngày kín bịch

(ngày)

Ngày xuất hiện quả thể (ngày)

Năng suất
trung bình/bịch phôi (gram)

Năng suất
so với bịch phôi nhiễm mốc xanh (%)

Năng suất so với bịch phôi sạch bệnh (%)

CT1

13,7

21

570a

-

 

CT2

16,6

22

311e

-

 

CT3

14,1

21

406d

30,54

-28,77

CT4

14,0

21

503c

61,73

-11,75

CT5

14,1

21

532b

71,06

-6,67

CV%

 

 

3,1

 

 

LSD0,05%

 

 

26,84

 

 

Kết quả bảng 5 cho thấy bịch phôi nấm vào giai đoạn có tơ nấm sò trắng đã phủ kín bịch nên tơ nấm đã đủ mạnh và cộng với khả năng ức chế nấm mốc xanh của nước vôi các nồng độ 5%, 10% và 15% nên năng suất nấm sò trắng trung bình trên mỗi bịch phôi đã được xử lý nước vôi tăng từ 37,62 – 45,87% so với bịch phôi nấm sò bị nhiễm nấm mốc xanh vào giai đoạn tơ nấm phủ kín bịch mà không được xử lý nước vôi (CT2). Xử lý nước vôi nồng độ 10% và 15% có hiệu quả tăng năng suất thực tế thấp hơn từ 2,12 – 2,93% so với bịch phôi sạch bệnh (CT1), tuy nhiên không sai khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê so với bịch phôi nấm hoàn toàn sạch bệnh. 

Bảng 5. Khả năng phòng trừ nấm mốc xanh của  nước vôi
giai đoạn tơ nấm sò đã phủ kín bịch phôi sau 45 ngày theo dõi

CT

Ngày xuất hiện quả thể (ngày)

Năng suất trung bình/bịch phôi (gram)

Năng suất
so với bịch phôi nhiễm mốc xanh (%)

Năng suất so với bịch phôi sạch bệnh (%)

CT1

7

614a

-

-

CT2

7

412c

-

-

CT3

7

567b

37,62

           -7,65

CT4

7

596a

44,66

-2,93

CT5

7

601a

45,87

-2,12

CV%

 

2,2

 

 

LSD0,05%

 

24,2

 

 

VI. KẾT LUẬN

          Thành phần bệnh hại phổ biến trên nấm sò trắng tại các trang trại tại Nghệ An gồm bệnh mốc đen (Aspergiluss sp.), bệnh mốc xanh (Trichoderma sp.), bệnh mốc cam (Neurospora sp.). Trong đó, bệnh mốc xanh do nấm Trichoderma sp. gây hại phổ biến nhất.

          Nấm mốc xanh (Trichoderma sp.) gây hại nặng nhất vào giai đoạn mới cấy giống nấm sò trắng làm tơ nấm phát triển kém dần; giai đoạn tơ nấm sò trắng đã phủ kín nửa bịch phôi và kín hoàn toàn bịch phôi làm giảm nhiều đến năng suất; giai đoạn bịch phôi nấm sò đã ra quả thể, nấm mốc xanh ít ảnh hưởng hơn.

          Phòng trừ nấm mốc xanh (Trichoderma sp.) bằng nước vôi có hiệu quả trên bịch phôi nấm sò trắng giai đoạn tơ nấm đã phủ kín nửa bịch phôi (dùng nước vôi 15%) và giai đoạn tơ nấm phủ kín bịch phôi (dùng nước vôi 10%).

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]  Trịnh Tam Kiệt (2013), Nấm lớn ở Việt Nam, Tập 3. Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và công nghệ Hà Nội.

[2]  Hassan, F.R.H., Medany, G.M. and Hussein, S.D., (2010), Cultivation of the king oyster mushroom (Pleurotus eryngii) in Egypt. Australian Journal of Basic and Applied Sciences, 4(1), pp. 99-105.

[3]  Mkhatshwa (2002), Nutrient content and yield in three flushes of oyster mushrooms (Pleurotus sajor caju and Pleurotus Hk-35).

[4]  Gunde-Cimerman N, Cimerman A. (1995). “Pleurotus fruiting bodies contain the inhibitor of 3-hydroxy-3-methylglutaryl-coenzyme A reductase-lovastatin.”. Exp Mycol.

[5]  Wang, H.X and Ng, T.B., (2000), Quinqueginsin, a novelprotein with anti-human immunodeficiency virus antifungal, ribonuclease and cell-free translation inhibitory activities from American ginsengroots. Biochem. Biophys. Res.Commun., 269: 155-159.

[6]  Wasser, S.P., (2002), Medicinal mushrooms as a source of antitumor and immuno modulating polysaccharides (minireview). Appl. Microbiol. Biotechnol., 60: 258-274.

Bài báo được đăng tại Hội thảo quốc gia bệnh hại thực vật Việt Nam lần thứ 17, 7/2018 trang 135-141.