Nguyễn
Thị Thúy1, Lê Thị Thanh Huyền1, Hoàng Văn Sơn1
1
Viện Nông
nghiệp và Tài nguyên - Trường Đại học Vinh
TÓM TẮT
Cây mật gấu Vernonia amygdalina khá phổ biến và dễ
trồng trong tự nhiên. Đây là nguồn nguyên liệu tự nhiên có giá trị để sử dụng
làm thuốc trừ sâu sinh học. Lá mật gấu
có nhiều cách chế biến khác nhau và khá đơn giản như làm dịch chiết tươi, nấu
và ngâm ủ lên men. Các dạng dịch chiết đều có tác dụng phòng trừ khá cao đối với
rệp cải hại rau họ hoa thập tự, trong đó dạng lên men cho hiệu quả cao nhất.
Trong phòng thí nghiệm, dịch chiết từ lá mật gấu lên men với nồng độ
pha dịch chiết/nước từ 1/25 - 1/20 và liều lượng
3ml/hộp đạt hiệu lực phòng trừ rệp cải từ 75,56 - 80,52% sau 5 ngày phun. Trên ruộng cải bẹ xanh với mật độ rệp
130 - 150 con/m2, sử
dụng dịch chiết lá mật gấu lên men với nồng
độ pha dịch chiết/nước là 1/20, với mức liều lượng 25 - 30ml/m2
đạt hiệu lực phòng trừ từ 69,84 - 74,56% sau 7 ngày
phun. Trên ruộng bắp cải
với mật độ rệp 110 - 130 con/m2, sử dụng dịch chiết lá mật gấu lên men với nồng độ pha dịch chiết/nước là 1/20, với
mức liều lượng 30 - 35ml/m2 đạt hiệu lực phòng trừ từ 71,52 - 73,67% sau 7 ngày
phun.
Từ khóa: Cải bẹ xanh, cải bắp, cây mật gấu, rệp cải, rau họ hoa thập
tự, thuốc trừ sâu sinh học.
MỞ ĐẦU
Rệp
cải Brevicoryne
brassicae là một trong các loài gây hại chính và phổ biển trên rau
họ hoa thập tự ở Việt Nam. Biện pháp phòng trừ chủ yếu hiện nay là sử dụng thuốc
hóa học nhưng hiệu quả không cao, mà còn để lại dư lượng trên nông sản. Để có rau an toàn, thuốc trừ sâu sinh học bằng thảo mộc được xem như một trong
những giải pháp hữu ích đang được nhiều
nước trên thế giới quan tâm. Ở Việt Nam, cho đến nay có một số công
trình nghiên cứu về sử dụng chế phẩm thảo mộc trong phòng trừ sâu hại rau họ
hoa thập tự đạt hiệu quả như Nguyễn Duy Trang và cs. (1995), Quách Thị Ngọ
(2000), Bùi Lan Anh và cs.(2011),…
Cây
mật gấu Vernonia amygdalina còn gọi
là cây lá đắng, săm gan, cây bầu đất,… khá phổ
biến và rất dễ trồng trong tự nhiên. Các dẫn liệu nghiên cứu trên thế giới cho
thấy cây mật gấu có triển vọng trong phòng trừ sâu hại cây trồng (Regina et
al., 2014; Mkenda et al., 2015; Paul et al., 2017;…). Trong khi đó, ở Việt Nam
cây mật gấu mới chủ yếu được biết đến với rất nhiều công dụng tốt trong việc hỗ
trợ điều trị các bệnh lý liên quan đến sức khỏe và có tác dụng làm tăng cường sức
đề kháng cho con người; còn hướng sử dụng cây mật gấu làm chế phẩm thảo mộc trừ
sâu hại hầu như chưa được nghiên cứu. Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi
đã tiến hành đánh giá hiệu lực của dịch chiết từ lá mật gấu đối với rệp cải,
làm cơ sở dẫn liệu bước đầu để tiến hành các nghiên cứu ứng dụng chế phẩm này
vào thực tiễn sản xuất.
NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nguyên liệu
Đối tượng nghiên cứu: Dịch
chiết từ lá cây
mật gấu Vernonia amygdalina; Rệp cải Brevicoryne brassicae Linnaeus (Homoptera: Aphididae) thu bắt trên
sinh quần ruộng rau họ hoa thập tự tại huyện Nghi Lộc, Nghệ An.
Vật liệu nghiên cứu: Rau họ hoa thập tự (Cải bẹ xanh Brassica juncea và cải bắp Brassica oleracea nhóm Capitata), dấm, rượu, mật, nước rửa chén, nước sạch,...
Dụng cụ: Cân điện
tử, hộp nhựa, cối, chày, dao, thớt, cốc đong, vải màn, bình phun thuốc,
panh,…
Các nghiên cứu được thực
hiện tại phòng thí nghiệm Viện Nông nghiệp và Tài Nguyên, Trường Đại học Vinh.
Phương pháp
Chuẩn bị dịch chiết mật gấu và rệp cải thí nghiệm
Lá mật gấu sau thu hái được rửa sạch, không
nhiễm hóa chất và sâu bệnh được sử dụng làm dịch chiết theo 3 dạng.
Dịch
chiết tươi: Xay nhỏ (dùng máy xay sinh tố hoặc cối giã nhuyễn) 100g lá mật gấu.
Vắt lấy dịch chiết, lọc qua lớp vải màn. Pha dịch chiết với nước theo tỉ lệ thí
nghiệm và thêm 0,3% dầu rửa bát rồi đem phun.
Dịch
chiết nấu: Cắt nhỏ 100g lá mật gấu, cho vào 0,5 lít nước, đun nhỏ lửa đến sôi.
Thời gian nấu khoảng 30 phút tính từ lúc sôi. Sau đó chắt nước ra, cho phần bã
lọc qua vải màn để vắt hết phần nước còn lại. Lọc lại dung dịch thu được qua lớp
vải màn để hết cặn bã. Pha dịch chiết với nước theo tỉ lệ thí nghiệm và thêm
0,3% dầu rửa bát rồi đem phun.
Dịch
chiết lên men: Cắt nhỏ 100g lá mật gấu. Ngâm lá mật gấu với mật, dấm, rượu
tương ứng theo tỷ lệ 1:1:1:4. Đậy kín nắp bình để nơi râm mát, tránh ánh nắng
trực tiếp trong thời gian khoảng 20 ngày. Lấy dịch chiết, lọc qua lớp vải màn.
Pha dịch chiết với nước theo tỉ lệ thí nghiệm và thêm 0,3% dầu rửa bát rồi đem
phun.
Rệp cải
sau khi thu bắt trên đồng ruộng rau được nuôi trong các hộp nhựa ở nhiệt độ 26±1oC và độ ẩm 75±2%, rồi chọn các cá thể khỏe mạnh làm thí nghiệm.
Bố trí thí nghiệm
Trong phòng thí nghiệm: Các thí nghiệm được bố
trí hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD) với 3 lần lặp lại, 3 hộp/lần. Hộp nhựa thí nghiệm kích thước10x13x10cm; mỗi hộp có
30 rệp. Điều kiện thí nghiệm ở nhiệt độ 26±1oC, độ ẩm 75±2% RH. Công thức đối
chứng phun nước sạch. Theo dõi sau phun 1, 2, 3, 4, 5 ngày.
Thí
nghiệm 1. Đánh giá hiệu lực phòng trừ của 3 dạng dịch chiết lá cây mật gấu đối
với rệp cải: Gồm 3 công thức là dạng tươi, nấu và ngâm ủ lên men; liều lượng 3ml/hộp; nồng độ pha dịch chiết/nước là 1/20 ml.
Thí
nghiệm 2. Đánh giá hiệu lực phòng trừ của dịch chiết lá cây mật gấu dạng lên
men đối với rệp cải ở các mức nồng độ phun khác nhau: Gồm 5 công thức nồng độ pha dịch chiết/nước là 1/15, 1/20, 1/25, 1/30,
1/35; liều lượng 3ml/hộp.
Thí
nghiệm 3. Đánh giá hiệu lực phòng trừ của dịch chiết lá cây mật gấu dạng lên
men đối với rệp cải ở các mức liều lượng phun khác nhau: Gồm 3 công thức liều
lượng phun là 1, 3, 5ml/hộp; nồng độ pha dịch chiết/nước
là 1/20.
Ngoài đồng ruộng: Các thí nghiệm được bố
trí theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCB) với 3 lần lặp lại. Diện tích mỗi ô thí
nghiệm 3m2; mỗi ô phun 1 lần với nồng độ pha dịch chiết/nước là
1/20; ô đối chứng phun nước. Điều tra mật độ rệp trên ruộng trước và sau
khi phun 1, 3, 5, 7 ngày.
Thí
nghiệm 4. Đánh giá hiệu lực phòng trừ rệp cải của dịch chiết lá cây mật gấu
dạng lên men trên ruộng cải bẹ xanh: Gồm 4 công thức liều lượng phun là 20, 25,
30, 35ml/m2; nồng độ pha dịch chiết/nước
là 1/20; mật độ rệp cải trung bình từ 130 - 150 con/m2.
Thí
nghiệm 5. Đánh giá hiệu lực phòng trừ rệp cải của dịch chiết lá cây mật gấu
dạng lên men trên ruộng cải bắp: Gồm 4 công thức liều lượng phun là 20, 25, 30,
35ml/m2; nồng độ pha dịch chiết/nước là
1/20; mật độ rệp cải trung bình từ 110 - 130 con/m2.
Các chỉ tiêu theo dõi xử lý số liệu
Trong
phòng thí nghiệm: Hiệu lực chế phẩm tính theo công thức Abbott (1925): K (%) =
[(Ca - Ta)/Ca)] x 100
Trong
đó: K là hiệu lực của chế phẩm thảo mộc, Ca là số cá thể sống ở công
thức đối chứng, Ta là số cá thể sống ở công thức thí nghiệm sau khi
xử lý.
Ngoài đồng ruộng: Hiệu lực chế phẩm tính theo
công thức Henderson -Tilton: H (%) = [1- (Ta x
Cb)/(Tb x Ca)] x 100
Trong đó: H là hiệu lực của chế phẩm, Ta là cá thể sống
ở công thức thí nghiệm sau xử lý; Tb là cá thể sống ở công thức thí nghiệm trước
xử lý; Ca là cá thế sống ở công thức đối chứng sau xử lý; Cb là cá thể sống ở
công thức đối chứng trước xử lý
Thời gian gây chết trung bình (giờ) (Median Lethal Time
- LT50) là thời gian cần thiết để gây chết
cho 50% số lượng cá thể trong thí nghiệm.
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm
IRRISTAT version 5.0
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Hiệu lực phòng trừ rệp cải của dịch chiết từ lá cây
mật gấu trong phòng thí nghiệm
Hiệu lực phòng trừ
rệp cải của các dạng dịch chiết từ lá cây mật gấu
Từ các nguyên liệu thảo
mộc thường có nhiều cách chế biến để tạo ra các dạng chế phẩm. Lá mật gấu cũng
được thử nghiệm chế biến theo các cách khác nhau để lấy dịch chiết. Kết quả
đánh giá hiệu lực phòng trừ của 3 dạng dịch chiết lá mật gấu đối với rệp cải
cho thấy (bảng 1): Cả 3 dạng dịch chiết là tươi, nấu và ngâm ủ lên men đều có
khả năng phòng trừ cao đối với rệp cải. Hiệu lực phòng trừ rệp cải tăng dần
theo nồng độ và thời gian, đạt cao nhất là dạng dịch chiết lên men là 79,46%,
tiếp theo dạng dịch chiết tươi là 71,82% và thấp nhất là dạng dịch chiết nấu chỉ
đạt 64,52% sau 5 ngày phun (sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,05).
Hai
dạng dịch chiết lên men và dịch chiết tươi tác động lên rệp cải nhanh hơn, sau
khi phun khoảng 1 giờ bắt đầu thấy rệp chết, dạng dịch chiết nấu phải sau 3 - 4
giờ rệp mới chết. Số lượng rệp cải chết tập trung nhiều từ ngày thứ 1 đến ngày
thứ 3 sau phun. Thời gian gây chết trung bình (LT50) đối với rệp cải
cũng có sự sai khác, tác dụng nhanh nhất của dịch chiết lên men là 45,6 giờ; tiếp
theo dịch chiết tươi là 45,6 giờ và dịch chiết nấu là 69,6 giờ.
Bảng 1: Hiệu lực phòng trừ rệp cải của 3 dạng dịch chiết
từ lá mật gấu
Dạng dịch chiết
lá mật gấu
|
Hiệu lực phòng trừ rệp
cải sau thời gian phun (TB) (%)
|
LT50 (giờ)
|
1 ngày
|
2 ngày
|
3 ngày
|
4 ngày
|
5 ngày
|
Dịch
chiết tươi
|
32,30b
|
44,67b
|
58,41b
|
67,33b
|
71,82b
|
57,1b
|
Dịch
chiết nấu
|
29,02b
|
40,05b
|
51,82c
|
61,67b
|
64,52c
|
69,6c
|
Dịch
chiết lên men
|
38,67a
|
54,83a
|
62,18c
|
76,52a
|
79,46a
|
45,6a
|
LSD0,05
|
4,02
|
9,21
|
6,45
|
8,06
|
6,83
|
10,71
|
CV%
|
4,80
|
9,50
|
10,70
|
8,40
|
6,60
|
14,80
|
Ghi
chú: TB: Trung bình; Nồng
đô pha dịch chiết/nước là 1/20, liều lượng phun 3ml/hộp; Các chữ cái là
số mũ khác nhau trong cột sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức P<0,05
Hiệu lực phòng trừ
rệp cải của dịch chiết lá cây mật gấu dạng lên men ở các mức nồng độ phun
khác nhau
Dịch chiết lá cây
mật gấu dạng lên men cho hiệu lực phòng trừ rệp cải cao hơn so với dạng dịch
chiết tươi và nấu, nên được lựa chọn để tiếp tục nghiên cứu. Thí nghiệm tiến
hành với 5 công thức nồng độ pha dịch chiết/nước phun lên rệp cải trong phòng
thí nghiệm là 1/35, 1/30, 1/25, 1/20, 1/15 (bảng 2). Khả năng phòng trừ rệp cải
của dịch chiết lá mật gấu dạng lên men tăng dần theo chiều tăng của các mức nồng
độ thí nghiệm. Trong đó, hiệu lực phòng trừ ở 3 mức nồng độ pha dịch chiết/nước
là 1/15, 1/20, 1/25 không có sự sai khác nhau và đạt kết quả cao nhất, tương ứng
là 84,23%, 80,52%, 76,54% sau 5 ngày phun. Tuy nhiên, kết quả có sự sai khác so
với mức nồng độ 1/30 đạt 66,82% và thấp nhất ở nồng độ 1/35 chỉ đạt 55,67% sau
5 ngày phun (sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,05). Thời gian gây chết
trung bình (LT50) của dịch chiết lá mật gấu lên men đối với rệp cải ở
3 mức nồng độ 1/15, 1/20, 1/25 cũng nhanh nhất, chỉ sau 47,5 - 54,2 giờ và có
sai khác với hai công thức còn lại là 69,6 giờ và chậm nhất là 90,2 giờ. Như vậy,
trong phạm vi thí nghiệm cho thấy việc sử dụng dịch chiết lá cây mật gấu dạng
lên men với nồng độ càng tăng thì khả năng gây chết càng cao và nhanh hơn. Mức
nồng độ pha dịch chiết/nước thích hợp để phòng trừ rệp cải là từ 1/25 - 1/20.
Bảng 2: Hiệu lực phòng trừ rệp cải ở các mức nồng độ phun
dịch chiết từ lá mật gấu lên men
Nồng độ
(Dịch chiết/nước)
|
Hiệu lực phòng trừ rệp
cải sau xử lý (TB) (%)
|
LT50 (giờ)
|
1 ngày
|
2 ngày
|
3 ngày
|
4 ngày
|
5 ngày
|
1/15
|
38,67a
|
50,28a
|
65,33a
|
74,78a
|
84,23a
|
47,5a
|
1/20
|
32,30a
|
48,33a
|
60,11a
|
73,03a
|
80,52a
|
52,4a
|
1/25
|
29,02ab
|
44,25ab
|
58,28ab
|
70,67a
|
76,54a
|
56,2a
|
1/30
|
21,33b
|
38,67b
|
52,47b
|
56,33b
|
66,82b
|
69,6b
|
1/35
|
18,63b
|
30,54c
|
41,84c
|
50,56c
|
55,67c
|
90,2c
|
LSD0,05
|
10,02
|
7,31
|
9,45
|
6,17
|
9,70
|
13,75
|
CV%
|
7,30
|
3,10
|
6,30
|
9,40
|
7,60
|
12,70
|
Ghi chú: TB: Trung bình; Liều
lượng phun 3ml/hộp; Các chữ cái là số mũ khác nhau trong cột sai khác có ý
nghĩa về mặt thống kê ở mức P<0,05
Hiệu lực phòng trừ
rệp cải của dịch chiết lá cây mật gấu dạng lên men ở các mức liều lượng
phun khác nhau
Đánh giá hiệu lực của
dịch chiết là mật gấu lên men ở nồng độ pha với nước 1/20 ở 3 mức liều lượng 1,
3, 5ml/hộp. Kết quả được trình bày ở bảng 3 cho thấy: Hiệu lực phòng trừ rệp cải
có xu hướng tăng dần theo mức tăng liều lượng phun và có sự sai khác giữa công
thức phun 1ml/hộp so với khi phun 3ml và 5ml/hộp. Trong đó, mức liều lượng 3ml
và 5ml/hộp có khả năng gây chết nhanh chỉ sau 1 ngày phun và đạt hiệu lực cao từ
75,56 - 81,67% sau 5 ngày phun. Còn mức phun 1ml/hộp hiệu lực chỉ đạt thấp hơn
là 59,23% sau 5 ngày phun (sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,05). Thời
gian gây chết trung bình (LT50) của dịch chiết lá mật gấu lên men đối
với rệp cải ở 2 mức liều lượng 3ml và 5ml/hộp là khá nhanh chỉ cần 48,2 - 56,2
giờ, nhưng có sự sai khác với liều lượng 1ml/hộp đạt được phải sau 70,6 giờ. Như
vậy, trong điều kiện thí nghiệm sử dụng dịch chiết lá mật gấu dạng lên men pha
với nước ở nồng độ 1/20 và liều lượng 3ml là đảm bảo khả năng phòng trừ rệp cải.
Bảng 3: Hiệu lực phòng trừ rệp cải ở các liều lượng phun
dịch chiết từ lá mật gấu lên men
Liều lượng
(ml/hộp)
|
Hiệu lực phòng trừ rệp
cải sau thời gian phun (TB) (%)
|
LT50 (giờ)
|
1 ngày
|
2 ngày
|
3 ngày
|
4 ngày
|
5 ngày
|
1
|
27,16b
|
40,70b
|
50,56b
|
56,22b
|
59,23b
|
70,6b
|
3
|
38,33a
|
47,67a
|
61,18a
|
68,10a
|
75,56a
|
56,2a
|
5
|
40,54a
|
51,32a
|
66,78a
|
74,33a
|
81,67a
|
48,2a
|
LSD0,05
|
7,16
|
5,39
|
10,44
|
6,17
|
8,75
|
10,76
|
CV%
|
2,90
|
6,70
|
4,50
|
8,80
|
7,90
|
15,30
|
Ghi chú: TB: Trung bình; Nồng đô pha
dịch chiết/nước là 1/20; Các chữ cái là số mũ khác nhau trong cột sai
khác có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức P<0,05
Hiệu lực phòng trừ rệp cải của dịch chiết từ lá cây
mật gấu ngoài đồng ruộng
Rệp cải là đối tượng
gây hại chính trên rau cải bẹ và cải bắp tại địa điểm nghiên cứu. Từ kết quả
thu được trong phòng thí nghiệm, làm cơ sở bố trí các nghiên cứu về khả năng
phòng trừ của dịch chiết lá mật gấu lên men đối với rệp rệp cải gây hại trên ruộng
cải bẹ xanh và ruộng cải bắp. Thí nghiệm bố trí với 4 mức liều lượng 20, 25,
30, 35 ml/m2 ở cùng mức nồng độ pha dịch chiết với nước là 1/20.
Hiệu lực phòng trừ rệp
cải của dịch chiết lá cây mật gấu dạng lên men trên ruộng cải bẹ xanh
Đánh giá hiệu lực
phòng trừ của dịch chiết lá mật gấu lên men đối với rệp cải gây hại trên ruộng
cải bẹ xanh, sau 7 ngày theo dõi cho thấy (bảng 4): Trên ruộng cải bẹ, sử dụng
dịch chiết lá mật gấu lên men phòng trừ rệp cải cho hiệu lực của khá cao ở
cả 3 công thức liều lượng phun từ 25 - 35ml/m2, đạt từ 69,84 -
74,56%; đồng thời có sự sai khác với mức 20ml/m2 khi hiệu lực chỉ đạt
58,33% sau 7 ngày phun (sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,05). Dịch
chiết lá mật gấu lên men có tác dụng gây chết khá nhanh cho rệp cải trên đồng
ruộng. Ở liều lượng 25 – 35ml/m2 sau 1 ngày phun hiệu lực đạt 38,67
- 43,67% và sau 5 ngày phun thì bắt đầu khống chế được mật độ rệp cải xuống thấp
với hiệu lực đạt 63,82 - 70,18%. Như vậy, sử dụng dịch chiết lá mật gấu dạng
lên men pha với nước ở nồng độ 1/20 và liều lượng từ 25 - 30ml/m2 là
có thể kiểm soát được rệp cải gây hại trên ruộng cải bẹ ở mật độ 130 - 150
con/m2, sau 5 - 7 ngày phun.
Bảng 4: Hiệu lực phòng trừ rệp cải của dịch
chiết lá mật gấu lên men trên ruộng cải bẹ xanh
Liều lượng
(ml/m2)
|
Hiệu lực phòng trừ rệp
cải sau thời gian phun (TB) (%)
|
1 ngày
|
3 ngày
|
5 ngày
|
7 ngày
|
20
|
29,73b
|
46,68b
|
54,67b
|
58,33b
|
25
|
38,67a
|
53,52ab
|
63,82a
|
69,84a
|
30
|
40,54a
|
59,56a
|
66,41a
|
72,33a
|
35
|
43,67a
|
62,73a
|
70,18a
|
74,56a
|
LSD0,05
|
7,22
|
11,92
|
8,14
|
7,82
|
CV%
|
12,80
|
19,10
|
18,50
|
11,90
|
Ghi chú: TB: Trung bình; Nồng đô pha
dịch chiết/nước là 1/20; Các chữ cái là số mũ khác nhau trong cột sai
khác có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức P<0,05
Hiệu lực phòng trừ rệp
cải của dịch chiết lá cây mật gấu dạng lên men trên ruộng cải bắp
Trên đồng ruộng cải bắp,
thử nghiệm khả năng phòng trừ của dịch chiết lá mật gấu lên men đối với rệp cải
được bố trí thí nghiệm tương tự như trên ruộng cải bẹ. Hiệu
lực của dịch chiết lá mật gấu lên men tăng dần
theo chiều tăng của các mức liều lượng thử nghiệm và thời gian sau phun. Trong
đó, hiệu lực phòng trừ ở liều lượng 30 - 35ml/m2 đạt từ 71,52 -
73,67%, cao hơn so với mức liều lượng từ 20 - 25ml/m2 đạt từ 57, 04
- 63,28% sau 7 ngày phun (sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,05).
Dịch chiết lá mật gấu lên men cũng có tác dụng gây chết khá nhanh đến rệp cải
trên ruộng cải bắp. Ở liều lượng 30 - 35ml/m2
sau 1 ngày phun hiệu lực đạt 35,17 - 38,56%, sau 5 ngày phun thì bắt đầu khống
chế được mật độ rệp cải xuống thấp với hiệu lực đạt 65,45 - 67,53%. Kết quả
trên cho thấy, sử dụng dịch chiết lá mật gấu dạng lên men pha với nước ở nồng độ
1/20 và liều lượng từ 30 - 35ml/m2 là có thể kiểm soát được rệp cải
gây hại trên ruộng cải bắp ở mật độ 110 - 130 con/m2, sau 7 ngày
phun (bảng 5).
Bảng 5. Hiệu lực phòng trừ rệp cải của dịch chiết lá
mật gấu dạng lên men trên ruộng cải bắp
Liều lượng
(ml/m2)
|
Hiệu lực phòng trừ rệp
cải sau thời gian phun (TB) (%)
|
1 ngày
|
3 ngày
|
5 ngày
|
7 ngày
|
20
|
27,56b
|
40,18c
|
51,33b
|
57,04b
|
25
|
33,33ab
|
52,46b
|
56,82b
|
60,28b
|
30
|
35,17a
|
57,91ab
|
65,45a
|
71,52a
|
35
|
38,56a
|
63,57a
|
67,53a
|
73,67a
|
LSD0,05
|
6,41
|
9,92
|
8,48
|
7,81
|
CV%
|
9,50
|
15,70
|
12,80
|
17,60
|
Ghi
chú: TB: Trung bình; Nồng
đô pha dịch chiết/nước là 1/20; Các chữ cái là số mũ khác nhau trong cột
sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức P<0,05
KẾT LUẬN
Dịch
chiết từ lá cây mật gấu ở cả 3 dạng là tươi, nấu, ngâm ủ lên men đều có khả
năng phòng trừ rệp cải Brevicoryne brassicae và hiệu quả cao
nhất là dạng ngâm ủ lên men. Trong
phòng thí nghiệm, sử dụng dịch chiết từ lá mật gấu lên men với nồng độ pha
dịch chiết/nước là 1/25 - 1/20, liều lượng
3ml/hộp gồm 30 rệp cải là phòng trừ được rệp cải đạt hiệu lực từ 75,56 - 80,52% sau 5 ngày phun. Ngoài
đồng ruộng, dịch chiết từ lá mật gấu lên men với nồng độ pha dịch chiết/nước là
1/20, phun trên rau cải bẹ xanh thì với mật
độ rệp cải 130 - 150 con/m2
cần sử dụng mức liều lượng 25-30ml/m2 là
có thể đạt hiệu lực phòng trừ từ 69,84 - 74,56%; còn phun trên ruộng
cải bắp thì với mật độ rệp cải 110 - 130 con/m2 cần sử dụng mức liều lượng 30 - 35ml/m2 là có thể đạt hiệu
lực phòng trừ từ 71,52 - 73,67% sau 7 ngày phun.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
Bùi Lan
Anh, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Hữu Thọ (2011) Hiệu lực của dung dịch ngâm lá, hạt
xoan Neem và chế phẩm Vineem 1500 EC trong phòng trừ rệp (Brevicoryne brassicae & Myzus Persicae) hại rau cải bắp vụ Đông
xuân sớm tại Thái Nguyên. Tạp chí
KH&CN, Bộ NN&PTNT 166: 50-54.
Quách Thị
Ngọ (2000), Nghiên cứu rệp muội
(Homoptera: Aphididae) trên một số cây trồng chính ở đồng bằng Sông Hồng và biện
pháp phòng trừ, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật Nông
nghiệp Việt Nam.
Nguyễn Duy
Trang (1995) Nghiên cứu sử dụng một số
cây có hoạt tính độc để làm thuốc trừ sâu ở phía Bắc Việt Nam, Luận án Phó
tiến sĩ Khoa học Nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật
Nông nghiệp Việt Nam.
Regina W.
Mwanauta, Kelvin A. Mtei and Patrick A. Ndakidemi (2014) Prospective Bioactive
Compounds from Vernonia amygdalina, Lippia javanica, Dysphania ambrosioides and Tithonia
diversifolia in Controlling Legume Insect Pests. Agricultural Sciences 5: 1129-1139.
Paul W.C.
Greena, Steven R. Belmainb, Patrick A. Ndakidemic, Iain W. Farrella and Philip
C. Stevensona (2017) Insecticidal activity of Tithonia diversifolia and Vernonia
amygdalina. Industrial
Crops and Products
110: 15-21.
Mkenda P,
Mwanauta R, Stevenson PC, Ndakidemi P, Mtei K
and Belmain SR (2015) Extracts from Field Margin Weeds Provide
Economically Viable and Environmentally Benign Pest Control Compared to
Synthetic Pesticides. PLoS ONE 10 (11).
Effects against Brevicoryne
brassicae OF LEAF EXTRACT OF Vernonia amygdalina
Nguyen
Thi Thuy1,
Le Thi Thanh Huyen1, Hoang Van Son1
1
Institute of
Agricultural and Resource - Vinh University
SUMMARY
Vernonia amygdalina is quite popular and very easy to grow plants in nature. This is a
valuable source of natural materials for use as a biological
insecticides. Leaves of Vernonia amygdalina had many different
processing methods and is quite simply such as fresh extract, cooking extract
and fermentation extract. The form of extracts are quite high control effect on
the Brevicoryne
brassicae damage on cabbage, in which the form of extract
fermentation for the highest efficiency. In the laboratory, fermented Vernonia amygdalina leaf extract
was concentration of extract/water of 1/25 - 1/20 và dose of 3ml/box with
effective results in
Brevicoryne
brassicae use from 75.56 - 80,52% after 5 days of
spraying. In the field of Brassica
juncea with density were 130 - 150 Brevicoryne brassicae per m2,
fermented extract of Vernonia amygdalina leaves was concentration of extract/water of 1/20
và dose of 25 - 30ml/m2 use, with effective was 69.84 - 74.56% after
7 days of spraying. In the field of Brassica
oleracea with density were 110 -
130 Brevicoryne brassicae per m2,
fermented extract of Vernonia amygdalina leaves was concentration of extract/water of 1/20
và dose of 30 - 35ml/m2 use, with effective was 71.52 - 73.67 after 7 days of spraying.
Key words:
Biological
insecticides, Brassica juncea, Brassica oleracea, Brevicoryne brassicae, cabbage, Vernonia amygdalina
Bài báo đăng tại kỷ yếu Hội nghị khoa học Công nghệ sinh học toàn quốc, 10/2018, tr. 1506 - 1512.